Tìm hiểu kỹ thuật chuyển vạt kiểu ria mép trong nâng mông

Tìm hiểu kỹ thuật chuyển vạt kiểu ria mép trong nâng mông
Tìm hiểu kỹ thuật chuyển vạt kiểu ria mép trong nâng mông
5/5 - (1 bình chọn)

Bài viết Tìm hiểu kỹ thuật chuyển vạt kiểu ria mép trong nâng mông được dịch bởi Ths, Bs Nguyễn Đình Trung từ sách PHẪU THUẬT TẠO HÌNH THẨM MỸ VÙNG MÔNG của Robert F. Centeno, MD, MBAa,b,*.

1. TỪ KHÓA

  •  Nâng mông Cải thiện kích thước vòng ba
  • Làm đầy mông
  • Làm đấy mông bằng vật liệu tự thân
  • Chuyển vạt mông
  • Vạt kiểu ria mép Giảm cân số lượng lớn.

2. ĐIỂM QUAN TRỌNG

  •  Những bệnh nhân sau giảm cân số lượng lớn thường gặp phải những bất thường vùng mông mà không thể điều trị bằng ghép mỡ hoặc implant đơn thuần.
  • Cải thiện kích thước vòng ba hoặc nâng mông là thủ thuật có nguy cơ làm phẳng vùng mông và trầm trọng thêm các dị tật sẵn có.
  • Làm đầy mông bằng vật liệu tự thân kết hợp với tăng kích thước vòng ba hoặc nâng mông có thể được sử dụng để giải quyết các dị dạng vùng mông, cải thiện đường bờ mông và dựng điểm hình chiếu.
  • Làm đầy mông bằng vật liệu tự thân với tăng kích thước vòng ba hoặc nâng mông có thể kết hợp với hút mỡ hoặc chuyển mỡ giữa các đơn vị thẩm mỹ mông để cải thiện kết quả.
  • Làm đầy mông bằng vật liệu tự thân với vạt chuyển vị hình ria mép cho phép cải thiện đường bờ mông đáng kể, hạ vị trí điểm hình chiếu và lấp đầy cực dưới của mông.

3. GIỚI THIỆU

Hiện nay nhu cầu phẫu thuật giảm cân ngày một tăng do các vấn đề về chế độ ăn và chế độ sinh hoạt. Sau các phẫu thuật này, bệnh nhân thường giảm cân nhanh chóng, thuật ngữ của chúng ta gọi là giảm cân lượng lớn (MWL), nhưng kéo theo đó là tình trạng xuất hiện các vùng da chùng/xệ do đã mất tính đàn hồi. Từ đây dẫn tới tăng mạnh nhu cầu chỉnh sửa/tạo hình đường nét cơ thể. Ngày nay, khi nhận thức về thẩm mỹ vùng mông đã thay đổi cùng với sự phát triển các phương tiện truyền thông đại chúng, nhu cầu tạo hình đường nét cơ thể và đặc biệt là vùng mông cũng tăng lên nhanh chóng. Mặc dù ngày nay, hầu hết các thủ thuật được thực hiện là implant và ghép mỡ tự thân, nhưng sau phẫu thuật bệnh nhân MWL vẫn thường xuất hiện những bất thường không thể sửa chữa, đòi hỏi các phẫu thuật khác để giải quyết triệt để. Sự gia tăng nhu cầu thực hiện các thủ thuật này cũng dẫn tới sự gia tăng đáng kể các thủ thuật tăng kích thước các vòng (CBL) và nâng mông sau cắt bỏ phần da thừa (EBL) với làm đầy mông bằng vật liệu tự thân ở nhiều đối tượng bệnh nhân với tình trạng chùng/nhão vùng mông và thiểu sản mông. Một số kỹ thuật làm đầy mông bằng vật liệu tự thân (AGA) với CBL và EBL đã được coi là những giải pháp cho vấn đề này. Mặc dù 3 loại vạt tự thân được mô tả trong bài báo này, chúng tôi sẽ tập trung vào loại vạt chuyển vị, với tên ‘ria mép’. Kinh nghiệm và kiến thức về nhiều loại kỹ thuật cho phép mở rộng ứng dụng của kỹ thuật này đối với những bệnh nhân giảm sản mông thay vì chỉ áp dụng cho bệnh nhân MWL.

4. GIẢM CÂN LƯỢNG LỚN VÀ NHỮNG BẤT THƯỞNG THẨM MỸ VÙNG MÔNG

Sự lão hóa làm thay đổi vị trí giải phẫu của toàn cơ thể, đặc biệt ở vùng thân và mông, làm ảnh hướng xấu tới đường nét và tính thẩm mỹ vùng. Sự tích tụ mỡ dưới da ở những vùng xung quanh mông và ở bụng của phụ nữ mãn kinh là những yếu tố quan trọng làm giảm tính thẩm mỹ vùng mông.

Hơn nữa, lão hóa còn ảnh hưởng tới độ đàn hồi da, cụ thể là xuất hiện tình trạng chùng/nhão da cùng với sự tích tụ lớp mỡ dưới da gây ảnh hưởng không hề nhỏ tới ngoại hình, cũng như khả năng phục hình cơ thể. Ở những bệnh nhân MWL, việc giảm mỡ quá nhiều làm mông dẹt, xẹp trong khi vùng da thì chùng nhão. Những phụ nữ trung tuổi cũng dần phát triển kích thước vòng hông, nếp lằn mông cũng dần dài hơn ra quá đường giữa mông. CBL đã được chứng minh là một thủ thuật rất hiệu quả trong việc giải quyết vấn đề này, vì thế chúng thường được áp dụng. Thật không may, thủ thuật này cũng xuất hiện một số biến chứng như làm phẳng mông hoặc trầm trọng thêm các dị tật sẵn có (Hình 1, video 1).

Hình. 1. CBL/EBL và vùng mông dẹt. (A-C) Hình ảnh phía sau, phía bên và chếch, trước phẫu thuật. (D-F) Hình ảnh phía sau, phía bên và chếch, sau phẫu thuật.
Hình. 1. CBL/EBL và vùng mông dẹt. (A-C) Hình ảnh phía sau, phía bên và chếch, trước phẫu thuật. (D-F) Hình ảnh phía sau, phía bên và chếch, sau phẫu thuật.

Bệnh nhân MWL đại diện cho một khía cạnh khác của việc chỉnh sửa đường nét cơ thể ở bệnh nhân giảm cân. Giảm cân sau tập thể dục hoặc các liệu pháp chăm sóc sức khỏe thường xảy ra theo nhiều chiều hướng khác nhau. Các phân tích đã cho thấy trên cơ thể có một số khu vực khó giảm hơn các vùng khác, do sự khác biệt về di truyền gen. Một số chuỗi gen quy định hình thể dạng ‘quả táo’, thì chủ yếu vùng mông không có nhiều mỡ. Nhưng ngược lại nếu hình thể dạng ‘quả lê’ thì lượng mỡ ở mông sẽ nhiều hơn. Các chuỗi gen này cũng quyết định hình dạng khung mông và theo đó là hình dáng mông. Cuối cùng, chỉ số khối cơ thể (BMI) sau giảm cân có tác động đáng kể đến việc chỉnh sửa vùng mông sau này. Nhiều bệnh nhân MWL có xu hướng mất một phần thể tích vùng mông.

5. CẢI TIẾN KỸ THUẬT NÂNG MÔNG BẰNG VẬT LIỆU TỰ THÂN

Bệnh nhân MWL cũng phát triển các thay đổi về xương có thể góp phần gây ra chứng platypy- gia (Hình 2). Béo phì góp phần tạo nên bệnh phổi hạn chế có cản trở đường thở biểu hiện rõ hơn ở tư thế nằm ngửa. Giới hạn lưu lượng thở ra ở tư thế nằm ngửa có thể dẫn đến tăng thông khí ở phổi và áp suất cuối thì thở ra dương nội tại. Hiện tượng này được cho là có vai trò trong việc chỉnh hình thở theo tư thế được các bệnh nhân béo phì báo cáo. Chứng vẹo lồng ngực hoặc cong vẹo cột sống thứ phát sau chèn ép cột sống ngực và độ nghiêng trước của khung chậu cũng xảy ra. Hạ canxi máu sau bỏ cầu được điều trị không thích hợp, kém hấp thu vitamin D, suy tuyến cận giáp thứ phát và tái cấu trúc xương được điều chỉnh bởi hor- mone sinh dục hoặc telopeptides huyết thanh cũng có thể trầm trọng hơn những thay đổi về xương liên quan đến cân nặng. Những thay đổi về da này là vĩnh viễn và làm trầm trọng thêm chứng đau cơ nguyên phát hoặc thứ phát do mất mô mỡ ở vùng mông. Những phát hiện về bộ xương này cũng góp phần đáng kể vào sự bất đối xứng có khả năng ảnh hưởng xấu tới đường nét cơ thể. Bắt buộc phải thảo luận với bệnh nhân về những bất đối xứng và hạn chế về xương này để quản lý kỳ vọng của họ.

Hình. 2. Thay đổi khung xương khi giảm cân lượng lớn. (A) Vẹo cột sống & vòng ngực lớn bất thường. (B) Xoay và nghiêng khung chậu. (C) Gù và vòng ngực lớn bất thường..
Hình. 2. Thay đổi khung xương khi giảm cân lượng lớn. (A) Vẹo cột sống & vòng ngực lớn bất thường. (B) Xoay và nghiêng khung chậu. (C) Gù và vòng ngực lớn bất thường..

Khi Nhu cầu nâng mông và trải nghiệm nâng mông với các dạng chất dẻo và AGA khác nhau ngày càng được mở rộng, một đồng thuận giữa các nhà khoa học đã khẳng định những hạn chế trong thiết kếimplant môngđã hạn chế sự thành công và sự chấp nhận rộng rãi của nâng mông bằng chất dẻo ở Hoa Kỳ. Tuy nhiên, những kỹ thuật này vẫn có thể áp dụng cho một số nhóm bệnh nhân có thông số tốt. Kỹ thuật alloplastic rất thành công trong việc nâng cao thẩm mỹ vùng mông, nhưng khả năng ứng dụng hạn chế vì tỷ lệ biến chứng đáng kể. Thành công thẩm mỹ của các thủ thuật alloplastic này đã truyền cảm hứng cho các tác giả và những người khác tiếp tục cải tiến một số kỹ thuật tạo vạt tự thân để nâng mông. Hơn nữa, tác động của vị trí cấy ghép lên hình chiếu mông và tính thẩm mỹ đã ảnh hưởng đáng kể đến kỹ thuật nâng mông bằng vật liệu tự thân .

Cấy ghép dưới cơ có điểm chiếu tối đa cao nhất so với điểm lý tưởng ở mức tại gò mu. Implant trong cơ làm giảm điểm hình chiếu tối đa, nhưng chúng vẫn cao hơn mức lý tưởng. Implant dưới cân hạ thấp điểm chiếu tối đa gần với lý tưởng nhất ở mức của gò mu (hình 3).

Hình. 3. Vị trí khối implant và điểm hình chiếu. MP: gò mu.
Hình. 3. Vị trí khối implant và điểm hình chiếu. MP: gò mu.

Bệnh nhân MWL, với phần da dư thừa đáng kể và mỡ ở mông, không phải là ứng cử      viên lý tưởng cho việc nâng cơ bằng bất kỳ phương pháp nào trong 3 mặt phẳng được chấp nhận: dưới cân, trong cơ, dưới cơ hoặc chuyển mỡ tự thân. Sự kết hợp của một thủ thuật đặc biệt (CBL / EBL) được đặc trưng bởi tỷ lệ biến chứng không nghiêm trọng cao hơn mức trung bình, với các thủ tục nâng mông bằng chất dẻo trong đó việc nhuẫn khuẩn sẽ là thảm họa. Các vạt khử biểu mô đã được sử dụng để tạo hình bờ mông trong một số trường hợp. Các tài liệu tham khảo đã được công bố về việc sử dụng mô tự thân trong việc ngăn ngừa những bất thường ở mông với CBL, nhưng thiếu chi tiết đáng kể và không chứng minh được khả năng làm đầy mông của chúng. Mô tả của động mạch mông trên, động mạch mông dưới, và các vạt sau lưng ngang và nguồn cung cấp mạch máu của chúng cũng củng cố khả năng tồn tại trên lâm sàng của phương pháp này. Các nghiên cứu giải phẫu gần đây hơn đã hoàn thiện thêm kiến thức của chúng ta về giải phẫu mạch máu của vùng cơ mông.

Đảo vạt AGA, một trong những kỹ thuật đầu tiên, mô phỏng một khối vạt hình tròn trong implant mông dưới cơ. Vạt này được cấp máu bởi nhánh xuyên động mạch mông trên được bảo tồn bằng cách hạn chế phá hoại vạt. Hunstad đã báo cáo về một biến thể của đảo vạt, một vạt ghép, sử dụng mối khâu purse-string để nâng cao độ chiếu của vạt. Colwell đã mô tả một biến thể của đảo vạt dựa trên thiết kế vạt từ nhánh xuyên động mạch mông trên (Hình 4). Pascal, Rapo- sa-Amaral và Kohler tất cả đều có các biến thể dự kiến của vạt với việc tăng dần lượng bổ sung xung quanh mô để cải thiện kết quả (Hình. 5). Mặc dù khả năng chiếu được tăng cường đáng kể với các cánh lật tăng dần này, điểm chiếu tối đa vẫn cao so với các thiết kế cánh thay thế. Bóc tách vạt để hạn chế sự phá hủy và huy động vạt từ vị trí hiến tặng ban đầu để bảo tồn mạch máu là yếu tố hạn chế chính. Và kết quả lâu dài thông qua những cách tiếp cận này đã gây thất vọng cho đa số các tác giả. Độ chiếu của mông cao hơn mức lý tưởng (là gò mu) và không có độ chiếu ở cực dưới của mông tiếp tục ảnh hưởng đến kết quả thẩm mỹ của các kỹ thuật này. Những thiếu sót này đã dẫn đến sự phát triển của kỹ thuật ưa thích của tác giả, vạt AGA ria mép (Hình. 6A), là một biến thể của vạt chuyển vị. Vạt AGA ria mép sử dụng tổ chức mô ở lưng và mạng sườn và đảo một phần và vạt chuyển vị một phần dựa trên cấp máu của nhánh xuyên động mạch mông trên và nhánh xuyên các động mạch vùng lưng. Vạt chuyển vị dưới trong của phần “tay lái” của vạt ria mép cho phép tuyển mô bổ sung cho mục đích nâng, cũng như hạ thấp điểm chiếu tối đa xuống mức ngang gò mu, giúp hài hòa hơn về mặt thẩm mỹ.

Hình. 4. Đảo vạt ở mông. (A) Đảo Centeno. (B) Mũi khâu purse string của Huntad. (C) Colwell, Borud, vạt cấp máu bởi nhánh xuyên động mạch mông trên. (a) Đánh dấu. (b) Vạt khử biểu mô. (c) Vạt bóc tách. (d) Mũi khâu neo và tạo hình.
Hình. 4. Đảo vạt ở mông. (A) Đảo Centeno. (B) Mũi khâu purse string của Huntad.
(C) Colwell, Borud, vạt cấp máu bởi nhánh xuyên động mạch mông trên. (a) Đánh dấu. (b) Vạt khử biểu mô. (c) Vạt bóc tách. (d) Mũi khâu neo và tạo hình.
Hình. 5. Vạt tăng cường. (A) Pascal. (B) Raposa-Amaral. (C) Koller.
Hình. 5. Vạt tăng cường. (A) Pascal. (B) Raposa-Amaral. (C) Koller.

Việc khâu nối vạt lại bằng các mối chỉ tạo ra hình thể như một khối implant anatomic bằng chất dẻo. Khu vực mô trung tâm của vạt thường được phân chia để cho phép kết hợp chặt chẽ hơn và quay ngược chiều bên cạnh vào vạt. Rhode cũng đề xuất một vạt chuyển vị một phần để hạ thấp điểm chiếu tối đa của các vạt tự thân để nâng cao kết quả. Sozer và cộng sự đề xuất một vạt luân chuyển cơ mông lớn dựa trên việc bóc tách một phần cơ mông lớn để tăng cường khả năng chiếu và tiếp cận của vạt từ giữa đến cực dưới của mông, và kết quả tương đối khả quan. Dựa trên kết quả đã công bố và đánh giá quan trọng về tính thẩm mỹ, vạt chuyển vị ria mép, như được Rohde hoặc Sozer và cộng sự mô tả, có khả năng đại diện cho các quy trình lựa chọn ở những nơi có ý nghĩa, lâu dài tăng cường thẩm mỹ là mong muốn và điểm thấp hơn của mức tối đa là rất quan trọng để có một kết quả hài hòa (Hình 6).

Hình. 6. Vạt chuyển vị. (A) Vạt ria mép của Centeno. (B) Vạt lật của Sozer. (C) Rhode. (a) Đánh dấu. (b) Vạt bóc tách và khử biểu mô kiểu ria mép. (c) Xoay vạt. (d) Ghép vạt . (e) Khâu chữ V với mép lộn vào trong.
Hình. 6. Vạt chuyển vị. (A) Vạt ria mép của Centeno. (B) Vạt lật của Sozer. (C) Rhode. (a) Đánh dấu. (b) Vạt bóc tách và khử biểu mô kiểu ria mép. (c) Xoay vạt.
(d) Ghép vạt . (e) Khâu chữ V với mép lộn vào trong.

6. PHÂN TÍCH THẨM MỸ VÙNG MÔNG

Việc lựa chọn kỹ thuật tạo đường bờ mông ở bệnh nhân MWL hoặc bệnh nhân muốn cải thiện thẩm mỹ bắt đầu bằng việc phân tích thẩm mỹ cẩn thận về bản chất và nguyên nhân của dị dạng cơ mông. Tình trạng của mô mỡ dưới da ở vùng mông cũng như các đơn vị thẩm mỹ xung quanh mông, đặc biệt là thân và chi dưới là bước đầu tiên của phân tích (Hình. 7). Dư thừa thể tích hoặc vùng mông nhão/chảy xệ là đủ tiêu chuẩn để thực hiện kỹ thuật này. Hình dạng mông như mô tả của Mendieta (Hình. 8) Khung mông chữ V là khó sửa nhất và đòi hỏi thể tích mô lớn nhất ở cực dưới và hai bên. Chiều cao và chiều rộng của cơ và xương sau đó được xác định để xác định xem mông cần rút ngắn hoặc dài ra cũng như để xác định vị trí cuối cùng của điểm chiếu tối đa (Hình 9). Phân tích này rất quan trọng đối với vị trí chiều cao vết rạch vì xác định lại lựa chọn vạt và vị trí vết rạch cuối cùng. Các vết rạch CBL / EBL cao có thểnâng caođộnét của eo đồng thời kéo dài mông thuận lợi ở bệnh nhân có mông ngắn (Hình 10). Mông ngắn được đặc trưng bởi chiều dài cơ mông ngắn và chiều cao khung chậu có thể được điều trị hiệu quả hơn với các vạt ngắn hơn như đảo vạt hoặc vạt tăng cường. Các vùng mông có cơ mông lớn dài, xương dài như mông hình chữ V được xử lý thích hợp hơn bằng một vạt chuyển vị. Các vạt chuyển vị sẽ lấy thêm mô để lấp đầy một phần ba dưới của mông và phần bên dưới của mông hình chữ V; điểm hình chiếu cực đại càng thấp càng tiến gần tới vị trí ngang gò mu. Cuối cùng, chất lượng và độ lỏng lẻo của da bụng, hai bên sườn, hông, lưng, mông, đùi trước, đùi bên và đùi sau được ghi nhận. Kết quả của những phân tích này sau đó được sử dụng để hướng dẫn thông qua một thuật toán tạo đường nét cơ mông để tạo đường nét cơ thể (Hình. 11). Khi đã đưa ra quyết định nâng mông và chỉ định một thủ thuật ngoại khoa để cải thiện sự lỏng lẻo của da mông phía sau, thì CBL hoặc EBL sẽ được xem xét. Nếu CBL hoặc EBL được chỉ định, thì phẫu thuật nâng mông bằng vạt cơ mông có cuống mạch nuôi trở thành thủ thuật được lựa chọn ở những bệnh nhân có BMI dưới 30 kg / m2. Sơ đồ dưới đây chỉ ra các lựa chọn ưu tiên cho nâng mông trong các điều kiện khác nhau. Theo thời gian, việc sử dụng các mô tự thân làm vạt hoặc chuyển mỡ đã trở thành những thủ tụcđược lựa chọn của hầu hết các Bác sĩ phẫu thuật. Nếu có sự thiếu hụt đáng kể ở phía bên như ở mông hình chữ V, có thể kết hợp chuyển mỡ tự thân với vạt ria mép để tinh chỉnh thêm. Vạt ria mép và các vạt chuyển vị khác đã được thực hiện các biện pháp điều trị bổ sung như thêm chất độn hoặc chuyển mỡ theo giai đoạn hoặc implant (ít cần thiết hơn do đã đạt được sự gia tăng đáng kể sau chuyển vạt). Do implant có tỉ lệ biến chứng cao nên được coi là thủ thuật được lựa chọn cuối cùng trong danh sách các thủ thuật bổ sung.

Hình. 7. Đơn vị thẩm mỹ vùng mông.
Hình. 7. Đơn vị thẩm mỹ vùng mông.
Hình. 8. Hình dáng khung mông.
Hình. 8. Hình dáng khung mông.
Hình. 10. Vị trí đường rạch đối với mông ngắn/dài. Trước phẫu thuật: (A) Mặt sau. (B) Mặt bên. Sau phẫu thuật (C) Mặt sau với đường rạch cao. (D) Mặt bên với đường rạch cao. Trước phẫu thuật (E) Mặt sau. (F) Mặt bên. Sau phẫu thuật (G) Mặt sau với đường rạch thấp. (H) Mặt bên với đường rạch thấp.
Hình. 10. Vị trí đường rạch đối với mông ngắn/dài. Trước phẫu thuật: (A) Mặt sau. (B) Mặt bên. Sau phẫu thuật (C) Mặt sau với đường rạch cao. (D) Mặt bên với đường rạch cao. Trước phẫu thuật (E) Mặt sau. (F) Mặt bên. Sau phẫu thuật
(G) Mặt sau với đường rạch thấp. (H) Mặt bên với đường rạch thấp.
 Hình.11.Sơ đồ chiến lược tạo hình vùng mông.
Hình.11.Sơ đồ chiến lược tạo hình vùng mông.

7. BMI VÀ CHỈ ĐỊNH PHẪU THUẬT

Những bệnh nhân béo phì có chỉ số BMI trên 30 kg / m2 đã được chứng minh là có nguy cơ cao mắc các về thẩm mỹ và đường nét cơ thể sau MWL. Tách vết mổ, chậm lành vết mổ,bướu huyết thanh, nhiễm trùng và huyết khối tĩnh mạch sâu là một số nguyên nhân phổ biến được quan sát thấy ở những bệnh nhân béo phì sau phẫu thuật. Những bệnh nhân này khác xa với các mục tiêu thẩm mỹ lý tưởng đã được thống nhất chung và nên được quản lý một cách thận trọng hơn. Các phương pháp tiếp cận ít rủi ro hơn như hút mỡ theo giai đoạn và các phẫu thuật tái tạo, và bóc tách hạn chế có thể làm giảm tỷ lệ mắc bệnh ở nhóm này. AGA với CBL / EBL không được khuyến khích trong nhóm này.

Những bệnh nhân có BMI trung bình (BMI 25-30 kg / m2) cũng có thể áp dụng các phẫu thuật ngoại khoa, hút mỡ bổ trợ và bổ sung chuyển mỡ tự thân để tạo hình thêm. Những bệnh nhân nhỏ tuổi không mắc bệnh đi kèm ở phần dưới của phạm vi này có thể được áp dụng AGA với CBL / EBL. Các thủ tục nào được kết hợp và cách chúng được tổ chức được xác định bằng cách kết hợp các xét nghiệm thẩm mỹ, tình trạng y tếtrước phẫu thuật, tuổi tác, chỉ số BMI, kết quả thể chất và mong muốn của bệnh nhân.

Những bệnh   nhân   BMI ở mức độ thấp (BMI <25 kg / m2) với da nhão, thiểu sản mông và không có lựa chọn dài hạn khả thi nào khác cho nâng mông thì có khả năng là nhóm lý tưởng cho AGA với CBL / EBL. Họ thường không có đủ chất béo để chuyển mỡ tự thân và chỉ cấy ghép bộ phận giả sẽ gây ra bất kỳ rủi ro không đáng có nào trong dân số bệnh nhân MWL. Nhóm này được hưởng lợi nhiều nhất về mặt thẩm mỹ từ AGA với quy trình CBL/ EBL và thường có ít biến chứng hơn (Bảng 1).

Bảng 1

BMI và lựa chọn phẫu thuật

BMI (kg/ m2) Lựa chọn phẫu thuật
 

<25

AGA với CBL/EBL, có thể chuyển mỡ hoặc thêm các phẫu thuật bơm chất độn
 

25-30

Chuyển mỡ, có thể thêm các phẫu thuật bơm chất độn hoặc AGA với CBL/ EBL
 

>30

CBL/EBL, hút mỡ, có thể chuyển mỡ hoặc thêm các phẫu thuật bơm chất độn.

 

8. CHỈ ĐỊNH CHUYỂN VẠT

Khi bệnh nhân đã được xác định là một ứng cử viên tốt cho AGA với CBL / EBL, việc lựa chọn thiết kế vạt phù hợp để đáp ứng các mục tiêu thẩm mỹ là điều tối quan trọng (xem Hình 11). Đảo vạt AGA với sự thay đổi của trên từng bệnh nhân và các biến thể của nó là các thủ tục can thiệp lượng mô nhỏ nhất và do đó là ít gia tăng thể tích nhất. Vị trí của những vạt này thường nằm ở 1/3 trên hoặc 2/3 trên của cơ mông lớn, làm cho chúng thích hợp với bệnh nhân có mông ngắn. Chúng chỉ được chỉ định để ngăn ngừa tác động làm phẳng của CBL / EBL. Hình chiếu mông trước phẫu thuật phải là “bình thường” hoặc gần với những gì bệnh nhân mong muốn. Điểm chiếu cực đại của đảo AGA thường nằm ở hoặc cao hơn một chút, mức chuyển vị của gò mu. Do đó, chúng có thể dễ sử dụng hơn ở phụ nữ Mỹ gốc Phi hoặc châu Á, cũng như ở bệnh nhân nam. Mong muốn có điểm chiếu tối đa cao hơn hoặc chiều cao thẳng đứng ngắn hơn của khung xương chậu có thể góp phần vào những yêu cầu thẩm mỹ này. Những phát hiện thẩm mỹ này được cho là đáng mong đợi hơn ở những nhóm bệnh nhân này. Cuối cùng, việc sử dụng thiết kế vạt đảo không được khuyến khích ở mông hình chữ V vì phục hồi thể tích bên trong và bên dưới là rất quan trọng để có kết quả thẩm mỹ tốt. Chúng có thể có hiệu quả ở những vùng mông hình chữ A, vuông và tròn.

Thiết kế vạt AGA tăng cường kết hợp thêm mô không xác định bên dưới hoặc bên với thiết kế vạt đảo được cho là đại diện cho cấp độtiếp theo của AGA. Chúngđược chỉ định ở những bệnh nhân bị platypygia nhẹ trước phẫu thuật và mong muốn tăng vừa phải. Kết quả này được thực hiện bằng cách thiết kế một vạt lớn hơn với khối lượng lớn hơn đáng kể ở phía dưới và bên. Những thiết kế vạt này có tác dụng độn vùng mông hiệu quả hơn một chút so với những thiết kế vạt đảo. Bởi vì điểm chiếu tối đa vẫn cao hơn đáng kể so với mức ngang của gò mu, cực thấp hơn của mông không được giải quyết.

Phương pháp này có thể có hiệu quả ở bệnh nhân bị sa mông đáng kể và mông hình chữ A, tròn hoặc vuông. Vạt tăng cường có thể đặc biệt hữu ích trong việc cải thiện tình trạng thiếu hụt mông bên ở những bệnh nhân có hình dạng mông này.

Các thiết kế vạt AGA chuyển vị là những thiết kế vạt được lựa chọn khi muốn nâng cao dứt điểm. Các vạt này có thể tích lớn nhất và tính linh hoạt để phục hồi thể tích ở tất cả các vùng của mông, bao gồm cả phần trên, giữa và 1 phần ba dưới của mông. Có thể dễ dàng điều chỉnh thể tích mong muốn cuối cùng để phù hợp với mong muốn thẩm mỹ của bệnh nhân bằng cách thay đổi cả chiều cao và chiều rộng của vạt. Bằng cách lấy thêm mô ở thân bên thấp hoặc mô mông cao, điểm cuối cùng của hình chiếu tối đa chuyển vị của chúng là ở mức độ của gò mu và đặc trưng cho thẩm mỹ cơ mông được chấp nhận chung nhất. Phần cực và bên dưới của mông và hông bên có thể được tăng lên đáng kể để nâng cao tính thẩm mỹ của mông ở hình vuông hoặc hình chữ V, làm cho nó trở thành thiết kế vạt được lựa chọn.

Các vạt AGA chuyển vị như vạt ria mép là phương pháp được lựa chọn vì khả năng ứng dụng rộng rãi, kết quả thẩm mỹ lâu dài tốt và dễ dàng hạ xuống khi cần.

Bất kể thiết kế vạt cuối cùng được chọn, thể tích của vạt có thể được điều chỉnh theo yêu cầu của tình trạng lâm sàng và mong muốn của bệnh nhân. Giới hạn cơ bản đối với thể tích vạt lớn hơn là giới hạn trên của mẫu đánh dấu da được sử dụng cho CBL / EBL. Các vạt nhỏ hơn cũng có thể được sử dụng để tăng biên độ an toàn về mặt độ hoàn thiện của mô, hoặc để tránh căng quá mức trên các nắp CBL / EBL phía sau. Tất cả các vạt có thể được hạ xuống hoặc đóng lại hoàn toàn để đảm bảo an toàn cho bệnh nhân nếu có bất kỳlo ngại nào về sự tưới máu mô, mài mòn quá mức khi đóng CBL hoặc không thể đóng các nắp trên mô cấy ghép tự thân.

9. GIẢI PHẪU LÂM SÀNG

Sự toàn vẹn cấu trúc giải phẫu ở vùng thân bên, lưng và vùng mông là những yếu tố quan trọng, đồng thời là những vùng dễtổn thương nhất khi thực hiện CBL/EBL. Thần kinh chậu hạ vị và chậu bẹn đều tách từ thân L1 và bắt nguồn từ đám rối thần kinh cùng. Các dây thần kinh này đi xuống dưới vào trong giữa cơ nang bụng và cơ chéo bé. Dây thần kinh chậu hạ vị chia thành nhánh bì ngoài và bì trước để chi phối cho vùng da mặt ngoài mông hai bên và phía xương mu. Đường rạch CBL nằM ngay tại/dưới nếp lằn bẹn 1 chút có thể phạm phải thần kinh này. Nhánh bi ngoái của thần kinh chậu hạ vị và thần kinh liên sườn cũng có thể bị tổn thương khi thực hiện phẫu thuật này. Tổn thương này có thể xảy ra nếu can thiệp quá sâu vào cơ chéo lớn trong khâu thít chặt vòng eo lại hoặc khi khâu mũi khâu 3 điểm hoặc quilting ở mặt bên cơ thể khi muốn giảm thiểu tối đa khoảng chết. Cảm giác vùng mông và thân bênđược chi phối bởi: các nhánh lưng thẳng của thân L3 L4 và nhánh bì của thần kinh chậu hạ vị từ thân L1, và các nhánh chi phối cho cảm giác mông từ các thân L1, L2, L3 đi qua mào chậu. Các dây thần kinh này tạm thời sẽ bị phong bế trong quá trình thực hiện CBL và AGA với CBL. Bệnh nhân nên được tư vấn về việc thay đổi tư thế thường xuyên và tránh sử dụng đệm và chăn sưởi để tránh hoại tử do tì đè hoặc bỏng.

Tưới máu cho da phía trên vùng mông được cung cấp bằng các nhánh xuyên của động mạch mông trên và dưới, cả hai nhánh này đều là nhánh từ động mạch chậu trong. Vùng thắt lưng cũngđược cấp máu bởi các nhánh xuyên của động mạch thắt lưng. Một số mạch xuyên này sẽ bị cắt bỏ ở mặt sau cơ thể khi thự hiện CBL / EBL, hoặc AGA với CBL / EBL, nhưng tất nhiên vẫn đủ nhánh mạch tưới máu mạnh mẽ cho các vạt mô xung quanh.

Giải phẫu cân vùng mông có ý nghĩa lâm sàng quan trọng đối với thẩm mỹ của mông đã bị lão hóa.

Tình trạng mất đàn hồi của các lớp cân dẫn tới chùng da/chảy xệ vùng mông. Việc cắt bỏ một phần và khâu nối lớp cân nông này không những cải thiện tình trạng sa mông mà còn đóng một vai trò quan trọng trong quy trình CBL / EBL và AGA với CBL / EBL. Vùng cân mông sâu đóng một vai trò quan trọng trong AGA với CBL là điểm cố định, nhưng cũng là điểm giữ nếp mạnh mẽ trong phương pháp tiếp cận hạ mông đối với nâng mông toàn bộ. Lớp cân nông và sâu kết dính chặt chẽ với nhau ở đoạn dưới để tạo thành nếp lằn mông, một cấu trúc không nên vi phạm vì nó cực kỳ khó tái tạo.

10. ĐÁNH DẤU VÙNG PHẪU THUẬT

Đánh dấu vùng   phẫu   thuật trong AGA với CBL / EBL bắt đầu bằng việc đánh dấu như với phiên bản sửa đổi của CBL / EBL truyền thống. Các dấu CBL / EBL sau được đặt thấp hơn bình thường để cho phép nâng cao cực giữa hoặc cực dưới của mông và phù hợp với các đơn vị thẩm mỹ vùng mông. Việc hạthấp các dấu này cũng giúp thu ngắn vùng mông một cách trực quan để nâng cao tính thẩm mỹ. Điểm hình chiếu tối đa của cơ mông đầu tiên được chiếu từ mức của gò mu trở ra phía sau và được đánh dấu.

Điểm dự kiến này được sử dụng để giúp xác định mức độ mở rộng tối đa cho thành phần nâng. Vị trí của các nhãn hiệu cao cấp của CBL / EBL sau đó được chọn dựa trên một số yếu tố. Những yếu tố này bao gồm điểm chuyển vị của phép chiếu tối đa, mong muốn thu ngắn hoặc kéo dài mông một cách trực quan và mức độ cần thiết tăng cường cực thấp hơn. Một mốc giải phẫu hữu ích được Mendieta mô tả là ụ nhô xương cùng tương ứng với vị trí nguyên ủy của cơ mông tối đa hay còn gọi là “mông tiêu chuẩn”. Một đường rạch           hình cánh quạt được sử dụng cho 2 mục đích: (1) để đặt đường rạch giữa các đơn vị thẩm mỹ xương cùng và mông do đó tăng cường tính thẩm mỹ, và (2) để ngăn ngừa hoặc cải thiện sự kéo dài nếp gấp giữa các cơ quan bất lợi liên quan đến nâng mông. Sau đó, các điểm phía dưới của CBL / EBL được đánh dấu bằng cách kéo và véo da cơ mông lỏng lẻo lên để ướm vừa với các điểm đã đánh dấu phía trên. Lượng da cắt bỏ này đủ để điều chỉnh sự lỏng lẻo của cơ mông trong khi vẫn giữ được các vạt AGA mới đặt một cách an toàn mà không bị căng quá mức. Sau đó, hai túi mông đối xứng được đo và đánh dấu bên dưới dấu CBL / EBL bên dưới bắt đầu từ 2 đến 3 cm trên nếp lằn mông.

Sau đó, thiết kế vạt mong muốn được đánh dấu bắt đầu ở điểm cắt bỏ thấp nhất ở vùng mông. Kích thước của vạt được xác định bởi kích thước cơ mông, lượng nâng mong muốn và giới hạn trên điểm đánh dấu đường nâng mông. Các vạt được tập trung từ giữa sang bên trên mỗi vùng mông. Khi sử dụng nắp chuyển vị hoặc nắp ria mép, các mô của thanh tay cầm phía bên có chiều rộng và chiều dài mong muốn sau đó sẽ được rút ra. Một chiếc khăn hoặc thước dây được sử dụng để xác định độ quay không đủ của cánh xoay hoặc chuyển vị từ trước của các thanh tay cầm của nắp chuyển vị ria mép. Điểm giới hạn đối với vòng cung quay là 12 cm tính từ đường giữa đối với vạt di chuyển ria mép và đường viền dưới của cơ mông tối đa đối với vạt xoay. Khi đã ở vị trí nằm sấp, các vạch trên và dưới trung tâm (xương cùng) cho phần sau của CBL / EBL sau đó có thể được điều chỉnh thấp hơn 1 đến 3 cm để thích ứng với sự dịch chuyển cao hơn của các mô lỏng lẻo, để đảm bảo an toàn cắt bỏ trung tâm, để bảo tồn trước tính thẩm mỹ của cơ mông, và để rút ngắn rãnh liên mông dài. Các mô tả truyền thống về đánh  dấu CBL  /  EBL phía  sau dẫn đến một vết rạch cuối cùng hoặc quá cao về mặt thẩm mỹ, vi phạm các đơn vị thẩm mỹ của cơ mông hoặc làm cho mông có hình dạng thon dài hoặc hình vuông.

Vị trí cuối cùng của CBL /EBL sau cùng với AGA thể hiện phần nào sự thỏa hiệp. Để phát triển một vạt cho phép nâng cao cực giữa và cực dưới của mông và nằm giữa cácđơn vịthẩm mỹcủa cơ mông, các điểm đánh dấu phải thấp hơn các mô tả kinh điển. Vị trí cố định của vết mổ ở phần tiếp giáp giữa các đơn vị thẩm mỹ vùng mông giúp cải thiện hình dạng của mông ở góc nhìn phía sau với chi phí đáng kể là làm tổn hại đến định nghĩa vòng eo bằng cách mở rộng nó. Vấn đề này có thể được khắc phục bằng cách thực hiện hút mỡ bổ trợ ở những bệnh nhân thừa mỡ vùng sườn. Ngược lại, đường rạch CBL / EBL phía sau cao truyền thống giúp cải thiện tình trạng cong thắt lưng và hình chiếu cơ mông rõ ràng ở chế độ xem bên và định nghĩa eo ở chế độ xem phía sau, nhưng với cái giá phải trả là mông dài ra vĩnh viễn khi nhìn từ đằng sau. Vết rạch cao cũng có thể nhìn thấy trên quần áo lót hoặc quần áo bình thường.

11. PHƯƠNG PHÁP PHẪU THUẬT

Tất cả các quy trình đều bắt đầu bằng việc đào sâu thiết kế vạt AGA đã  chọn.  Cả đảo và vạt tăng cường đều được mổ xẻ theo kiểu cắt vát bằng dao điện xuống thông qua hệ thống cân nông, cân cơ mông và mạc thắt lưng cùng. Vùng mạc trên xương cùng còn nguyên vẹn. Các mô xung quanh được cắt bỏ theo kế hoạch để hoàn thành CBL / EBL,để lại một lớp mỡphía trên lớp cân cơ. Các túi mông tập trung trên vùng cơ mông được chia cắt đối xứng bên dưới hệ thống cân nông nhưng ở trên cơ cân mông, nhưng không xa hơn, nếp gấp lằn mông. Một cầu mô bên được giữ nguyên như một đường viền với túi để ngăn chặn sự sai lệch bên của vạt AGA. Khi sử dụng một vạt chuyển vị hoặc vạt ria mép, các phần mở rộng của thanh tay cầm của vạt sau đó sẽ được tách ra từ cân ngực sau lên đến 12 cm tính từ đường giữa để bảo tồn hệ thống tưới máu động mạch mông trên. Ngược lại, sự mở rộng của cơ tối đa của cơ mông hạn chế sự bóc tách bên dưới của vạt cơ mông tách đôi. Lớp hạ bì của thanh tay cầm xa hoặc của vạt lật phân chia được neo vào cơ mông ở khía cạnh thấp nhất của túi mông. Phần giữa của vạt ria mép được chia ở trung tâm và xoay ngang dọc và được khâu vào lớp hạ bì của vạt. Vạt AGA chuyển vị của ria mép được đính lỏng lẻo bằng chỉ khâu để tinh chỉnh hình chiếu, hình dạng và đối xứng (xem Hình. 6A, B). Các vạt được neo chặt hơn vào mặt giữa của túi mông bằng chỉ khâu có thể thấm hút để tăng cường hình dạng cuối cùng và ngăn ngừa di lệch sang bên. Hệ thống dẫn lưu được đặt hai bên ở phía dưới cùng của túi mông. Vết mổ CBL được đóng tạm thời bằng kẹp clip. Khi đã so sánh thấy hai bên cân đối, hệ thống cân nông được đóng lại bằng chỉ khâu tùy theo kinh ng- hiệm của Bác sĩ. Lớp hạ bì sâu và bề mặt được đóng lại theo kiểu thông thường. Vết mổ được băng bằng băng ép, nhưng cẩn thận để tránh các lực cắt gây ra bởi sự chèn ép quá mức của băng.

12. BIẾN CHỨNG

Biến chứng liên quan đến các thủ thuật AGA không tăng lên đáng kể so với các thủ thuật CBL/ EBL tiêu chuẩn. Tỷ lệ được báo cáo về chậm liền vết mổ, hoại tử da rơi vào khoảng 0-77% và tổng tỉ lệ trung bình các biến chứng là khoảng 10-80%. Tình trạng tưới máu cho vạt khi thực hiện thủ thuật này với những bệnh nhân MWL là tương đối tôt. Chỉ 1 nghiên cứu chuỗi case lâm sàng thực hiện AGA với CBL báo cáo rằng tỉ lệ biến chứng liền vết thương cao hơn đáng kể so với CBL kinh điển trên bệnh nhân MWL. Mặc dù vẫn tồn tại biến chứng, song các bác sĩ phẫu thuật và bệnh nhân cơ bản đều hài lòng với kết quả thẩm mỹ khi thực hiện AGA. Theo tác giả, các nhóm bệnh nhân thực hiện AGA thường là những đối tượng nặng hơn trung bình 1 chút, và việc áp dụng AGA với CBL  cho  kết quả  tích  cực đối với các bệnh nhân này. Những phát hiện này cho thấy việc thiết kế vạt, tình trạng béo phì và tiêu chuẩn chọn bệnh nhân là những vấn đề có thể ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng. Một nghiên cứu tổng phân hợp (phân tích gộp) được   công bố gần đây cho thấy không có sự khác biệt về tỉ lệ biến chứng giữa bệnh nhân MWL được thực hiện nâng mông bằng vạt tự thân và nâng mông bằng các kỹ thuật khác. Trong loạt bài của tác giả, 1 trường hợp hoại tử vạt mức độ nhẹ có thể giải thích là do sự kéo dài quá mức của thanh tay cầm bên của vạt ria mép vào mạch sau-liên sườn – một số như mô tả của đơn vị Taylor. Bởi vì phần mở rộng bên này không được xác định để cho phép chuyển vị trung gian trong biến thể ria mép của vạt AGA chuyển vị, giới hạn 2 angio¬som lân cận về tưới máu cho vạt tưới máu có thể đã bị vượt quá.

Một so sánh tổng hợp, hồi cứu về tỷ lệ chữa lành vết thương chậm và biến chứng cho bệnh nhân CBL và AGA với CBL không cho thấy tỷ lệ biến chứng tăng lên đáng kể (Hình 12 và 13, Bảng 2). Tỷ lệ lành vết mổ chậm được ghi nhận trong 2 loạt bài này có thể so sánh với tỷ lệ đối với CBL và đường nét cơ thể ở bệnh nhân MWL hoặc béo phì trong loạt bài đã xuất bản. Bệnh nhân MWL, có khả năng đại diện cho một bệnh nhân “có nguy cơ” cao hơn khi so sánh với một bệnh nhân thẩm mỹ bình thường, khỏe mạnh. Tuy nhiên, sự suy giảm của nắp kém hơn và sức căng khi đóng có thể đáng kể hơn khi AGA được thêm vào CBL. Sự kết hợp này có thể dẫn đến các vấn đề về chữa lành vết thương, đặc biệt là ở khía cạnh trung tâm của vết mổ trong vùng “đổ nước” của tưới máu mô. Để giúp cải thiện vấn đề này, bệnh nhân được đánh dấu để cắt trung tâm ở tư thế cúi gập người xuống để mô phỏng lực căng đặt lên vết mổ khi ở tư thế bán Fowler sau phẫu thuật và mức độ cắt trung tâm bị hạn chế.

 Hình. 12. Kết quả tạo hình đảo vạt trong AGA với CBL. Trước phẫu thuật (A) Mặt sau. (B) Mặt bên. (C) Chếch trái sau. Sau phẫu thuật (D) Mặt sau. (E) Mặt bên. (F) Chếch trái sau. Trước phẫu thuật (G) Mặt sau. (H) Chếch trái sau. (/) Mặt bên. Sau phẫu thuật (J) Mặt sau. (K) Chếch trái sau. (L) Mặt bên
Hình. 12. Kết quả tạo hình đảo vạt trong AGA với CBL. Trước phẫu thuật (A) Mặt sau. (B) Mặt bên. (C) Chếch trái sau. Sau phẫu thuật (D) Mặt sau. (E) Mặt bên. (F) Chếch trái sau. Trước phẫu thuật (G) Mặt sau. (H) Chếch trái sau. (/) Mặt bên. Sau phẫu thuật (J) Mặt sau. (K) Chếch trái sau. (L) Mặt bên
Hình. 13. Kết quả tạo hình vạt ria mép trong AGA với CBL. Trước phẫu thuật (A Mặt sau. (B) Mặt chếch. (C) Mặt bên. Sau phẫu thuật (D) Mặt sau. (E) Mặt chếch. (F) Mặt bên. Trước phẫu thuật (G) Mặt sau. (H) Mặt chếch. (/) Mặt bên. Sau phẫu thuật (J) Mặt sau. (K) Mặt chếch. (L) Mặt bên.
Hình. 13. Kết quả tạo hình vạt ria mép trong AGA với CBL. Trước phẫu thuật (A Mặt sau. (B) Mặt chếch. (C) Mặt bên. Sau phẫu thuật (D) Mặt sau. (E) Mặt chếch.
(F) Mặt bên. Trước phẫu thuật (G) Mặt sau. (H) Mặt chếch. (/) Mặt bên. Sau phẫu thuật (J) Mặt sau. (K) Mặt chếch. (L) Mặt bên.

Lập kế hoạch trước phẫu thuật cẩn thận để tránh cắt bỏ quá mức và bảo tồn kích thước vạt sẽ hữu ích trong việc tránh các vấn đề nghiêm trọng về liền vết mổ, hoại tử da và tách vết mổ. Lựa chọn thích hợp những bệnh nhân có chỉ số BMI thấp hơn có ít nguy cơ mắc các vấn đề về liền vết mổ hơn cũng rất hữu ích. Mặc dù những hạn chế này có thể làm giảm chất lượng kết quả ban đầu của bạn, nhưng có thể đạt được kết quả tốt hơn đáng kể khi có thêm kinh nghiệm.

Các bướu huyết thanh lớn có thể được giảm bớt bằng cách đặt ống dẫn lưu vào phần độc lập quanh túi mông. Doxycycline được sử dụng tiêm vào bướu huyết thanh hoặc quản lý tình trạng tăng tiết dịch quá mức ở bệnh nhân CBL theo thực hành của tác giả. Chất bịt lỗ hổng mô hiện không được sử dụng do chi phí bất hợp lý và thiếu dữ liệu thuyết phục trong ứng dụng này. Mối khâu chần bông (quilting) không được sử dụng thường xuyên do không hiệu quả và biến chứng mà các chỉ khâu này có thể gây ra. 

Bảng 2

Tỉ lệ biến chứng kỹ thuật AGA/CBL chuyển vạt kiểu ria mép (n = 52)

Biến chứng % (n)
Liền vết mổ chậm 17(9)
Tách vết mổ (nông) 7(4)
Tách vết mổ (sâu) 4(2)
Nhiễm khuẩn 4(2)
Temporary anal overexposure 4(2)
Bướu hthanh cần dẫn lưu 2(1)
Vạt không đúng vị trí 2(1)
Hoại tử mỡ (ít) 2(1)
Hoại tử mỡ (nhiều) 0
Hoại tử da 0
Huyết khối tĩnh mạch/phổi 0
Loét điểm tì 0
Lộ vạt 0

“ Từ viết tắt: AGA: nâng mông bằng vật liệu tự thân, CBL: cải thiện kích thước vòng ba, DVT: huyết khối tĩnh mạch sâu, PE: thuyên tắc phổi”

Ngoài những lưu ý này, không thể phóng đại tầm quan trọng của việc lựa chọn bệnh nhân thích hợp khi dự tính AGA với CBL/ EBL. Sử dụng quy trình thích hợp cho nhóm BMI thích hợp và phù hợp với đặc điểm thể chất sẽ làm giảm đáng kể tỷ lệ biến chứng. Những người có chỉ số BMI lớn hơn 30 kg / m2 có nguy cơ lành vết thương Biến Chứng từ hầu như tất cả các thủ thuật tạo đường nét cơ thể và không trở thành ứng cử viên lý tưởng cho các liệu trình này. Các cách tiếp cận ít rủi ro hơn được khuyến khích.

13. AN TOÀN CHU PHẪU

Trung bình, bệnh nhân được thực hiện AGA với CBL cần nằm viện từ 1-2 ngày, nhưng cũng có thể được thực hiện như một thủ thuật cho bệnh nhân ngoại trú. AGA với EBL thì có thể coi như một thủ thuật ngoại trú thực sự. Các bệnh nhân MWL thường đòi hỏi phải thực hiện nhiều thủ thuật cho tới khi đạt được hình thể mong muốn, nên cần đảm bảo về yếu tố sức khỏe đểcó thểtrải qua nhiều cuộc phẫu thuật cùng lúc, đồng thời cần được quản lý hậu phẫu chu đáo. Các vấn đề về điều trị dự phòng thuyên tắc phổi/huyết khối tĩnh mạch sâu, mất máu, hạ thân nhiệt, rối loạn điện giải, cân bằng thể dịch cần được chú ý. Bệnh nhân được đặt ở tư thế nằm sấp trên giường mềm, các vị trí điểm tì được đặt các tấm đệm, gel lót (mặt, mắt, nách, vú,bộ phận sinh dục. khuỷu tay, đầu gối và mắt cá chân). Sau phẫu thuật nên duy   trì ổn định   huyết động và thông khí cho bệnh nhân. FiO2 tăng lên đến 80% với mask không thở lại có thể được áp dụng để duy trì thông khí trong phòng hồi tỉnh, ít nhất là 2h sau phẫu thuật vì có nghiên cứu đã chứng minh việc làm này giúp giảm tỉ lệ nhiễm trùng sau phẫu thuật và tình trạng buồn nôn. Các xét nghiệm cận lâm sàng thường quy sau phẫu thuật bao gồm công thức máu, sinh hóa cơ bản, Calci máu, Magne máu, Phos- phate máu. Các xét nghiệm khác như nồng độ glucose, protein, al- bumin máu và đông máu cũng nên được lấy mẫu xét nghiệm. Bổ sung protein và tối ưu hóa dinh dưỡng đóng vai trò quan trọng trong việc phục hồi ở bệnh nhân MWL. Đặt sonde Foley để theo dõi lượng nước tiểu, sử dụng kháng   sinh dự phòng trong 24h trước và sau phẫu thuật. Các  dụng cụ băng  ép và vận động sớm được khuyến cáo sử dụng để  dự phòng  huyết  khối tĩnh mạch sâu. Thuốc chống đông đường uống hoặc tiêm có thể được sử dụng kết hợp với các loại tất áp lực trên những bệnh nhân có nguy cơ huyết khối trung bình đến cao đối với huyết khối tĩnh mạch sâu/ thuyên tắc phổi hoặc có tiền sử thuyên tắc tĩnh mạch sâu/thuyên tắc phổi trước đó. Liều lượng các thuốc này dưa trên trọng lượng cơ thể (trọng lượng cơ) và nên được điều chỉnh ở bệnh nhân béo phì. Khối máu tụ sau phẫu thuật thường hiếm khi xuất hiện, đặc biệt là ở những bệnh nhân sử dụng liệu pháp chống đông. Cần theo dõi sát và chỉ định các xét nghiệm cận lâm sàng thích hợp khi sử dụng thuốc kháng đông sau phẫu thuật.

Các loại băng ép không nên sử dụng hàng ngày sau phẫu thuật, trong một thời gian dài vì các lo ngại về tình trạng tưới máu cũng như hoại tử mô do áp lực. Điều này dẫn tới việc cân nhắc sử dụng chúng trong giai đoạn muộn sau phẫu thuật. Các loại gạc cổ điển giờ được thay thế bằng keo sinh học để cho phép theo dõi tình trạng tưới máu da và giảm phỏng huyết thanh do thiểu dưỡng. Dẫn lưu được loại bỏ khi dẫn được < 30mL/24h. Nếu dịch tiết nhiều hoặc kéo dài, có thể tiến hành điều trị gây xơ bằng dox- ycyline liều cao (500 mg/10mL NaCL 0.9%) bằng cách bơm chúng theo đường dẫn lưu vào trong kho- ang phẫu thuật, kẹp dẫn lưu 15-30 phút rồi hút ra. Trươc khi gây xơ, nên thực hiện gây tê tại chỗ bằng bupivacaine 0.5% (Marcaine) liều theo cân nặng vào khoang thanh mạc. Sau gây xơ khoảng 8-24 tiếng thường xuất hiện tình trạngđau và nên sử dụng giảm đau gây ng- hiện để tránh những tác động bất lợi đến bệnh nhân. Quy trình này có thể phải lặp lại nhiều lần mới có thể điều trị dứt điểm tình trạng tăng tiết dịch. Nồng độ doxycycline này cao hơn liều lượng khuyến cáo tiêm tĩnh mạch, đây là cách sử dụng thuốc không theo liều lượng thông thường nên cần thông báo với bệnh nhân trước để yêu cầu sự đồng thuận. Ngoài ra, nếu bướu huyết thanh xuất hiện sau khi rút dẫn lưu, có thể dùng dung dịch doxy này để tiêm vào khoang bướu sau khi đã hút hết lượng huyết thanh có bên trong để gây xơ. Tuy nhiên cần đảm bảo không tiêm dung dịch này vào mô dưới da vì có thể gây tình trạng hoại tử mỡ và da. Vì lý do này, nên sử dụng siêu âm để hướng dẫn vị trí hút, tiêm dung dịch doxy. Trong một số trường hợp, có thể phải phẫu thuật cắt bỏ khối bướu nếu chúng tái phát nhiều lần.

14. TỔNG KẾT

AGA với CBL/EBL ở bệnh nhân MWL là một trong những phương pháp điều trị hiệu quả trong việc cải thiện đường nét cơ thể. Kỹ thuật chuyển vạt kiểu ria mép là một sự lựa chọn thay thế cho những liệu pháp làm đầy mông bằng chất dẻo (implant) và các kỹ thuật nâng mông bằng vật liệu tự thân đang thịnh hành hiện nay. AGA với CBL/EBL sử dụng kỹ thuật chuyển vạt kiểu ria mép vừa giúp duy trì được kết quả lâu dài, vừa giúp hạn chế biến chứng. Việc cải tiến hơn nữa các kỹ thuật này cũng như lựa chọn đúng đối tượng có chỉ định giúp cái thiện kết quả thẩm mỹ.

15. THAM KHẢO

Thông tin liên quan đến bài báo có thể tham khảo tại: https://doi:10.1016/j.cps.2017. 12.011.

16. TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. American Society for Aesthet- ic Plastic Surgery 2016. Cosmetic Surgery National Data Bank Statis- tics.
2. Bauccu O, Gozil R, Ozmen S, et al. Gluteal region morphology: the effect of the weight gain and aging. Aesthetic Plast Surg 2002;26:130– 3.
3. Da Rocha RP. Surgical anatomy of the gluteal region’s subcuta- neous screen and its use in plas- tic surgery. Aesthetic Plast Surg 2001;25:140–4.
4. Toth MJ, Tchernof A, Sites CK, et al. Menopauserelated changes in body fat distribution. Ann N Y Acad Sci 2000;904:502–6.
5. Kopelman PG. The effects of weight loss treatments on up- per and lower body fat. Int J Obes 1997;21:619–25.
6. Ferretti A, Giampiccolo P, Cavalli A, et al. Expiratory flow limitation and orthopnea in massively obese subjects. Chest 2001;119:1401–8.
7. Watson RA, Pride NB. Postural changes in lung volumes and re- spiratory resistance in subjects with obesity. J Appl Physiol (1985) 2005;98:512–7.
8. De Souza SAF, Faintuch J, Valezi AC, et al. Postural changes in mor- bidly obese patients. Obes Surg 2005;15:1013–6.
9. Giusti V, Gasteyger C, Suter M, et

al. Gastric banding induces nega- tive remodeling in the aBác sĩence of
secondary hyperparathyroidism: potential role of serum c telo- peptides for follow-up. Int J Obes 2005;29(12):1429–35.
10. Vergara R. Intramuscular gluteal implants: fifteen years’ experience. Aesthet Surg J 2003;23(2):86–91.
11. De la Pena JA. Subfascial tech- nique for gluteal augmentation. Aesthet Surg J 2004;24:265–73.
12. Gonzalez-Ulloa M. Gluteoplas- ty: a ten-year report. Aesthetic Plast Surg 1991;15:85–91.
13. Mendieta CG. Gluteoplasty. Aes- thet Surg J 2003; 23(6):441–55.
14. Sinno S, Chang JB, Brownstone ND, et al. Determining the Safety and Efficacy of Gluteal Augmenta- tion: A Systematic Review of Out- comes and Complications. Plast Re- constr Surg 2016;137(4):1151–6.
15. Mofid MM, Gonzalez R, de la Pen˜a JA, et al. Buttock augmen- tation with silicone implants: a multicenter survey review of 2226 patients. Plast Reconstr Surg 2013;131(4):897–901.
16. Gonzalez M, Guerrerosantos J. Deep planed torsoabdominoplasty combined with buttocks pexy. Aes- thetic Plast Surg 1997;21:245–53.
17. Guerrero-Santos J. Secondary hip-buttock-thigh plasty. Clin Plast Surg 1984;11:491–503.
18. Pitanguy I. Surgical reduction of the abdomen, thighs and buttocks. Surg Clin North Am 1971;51:479– 89.

19. Pascal JF, Le Louarn C. Re- mod eling body lift with high lat- eral tension. Aesthetic Plast Surg 2002;26:223–30.
20. Regnault P, Daniel R. Second- ary thigh-buttock deformities af- ter classical techniques. Preven- tion and treatment. Clin Plast Surg 1984;11(3):505–16.
21. Strauch B, Vasconez LO, Hall-Findlay EJ. Grabb’s encyclope- dia of flaps. 2nd edition. Philadel- phia: Lippincott-Raven; 1988.
22. Taylor GI, Corlett RJ, Dhar SC, et al. The anatomical (angiosome) and clinical territories of cutane- ous perforating arteries: develop- ment of the concept and design- ing safe flaps. Plast Reconstr Surg 2011;127(4):1447–59.
23. Pan WR, Taylor GI. The angio- somes of the thigh and buttock. Plast Reconstr Surg 2009;123(1):236– 49.
24. Centeno RF. Autologous gluteal augmentation with circumferential body lift in the massive weight loss and aesthetic patient. Clin Plast Surg 2006;33:479–96.
25. Young VL, Centeno RF. The role of large-volume liposuction and other adjunctive procedures. In: Rubin JP, Matarasso A, editors. Aes- thetic surgery after massive weight loss. Philadelphia: Elsevier Saun- ders; 2007. p. 167–87.
26. Rohde C, Gerut ZE. Augmenta- tion buttock pexy using autologous tissue following massive weight loss.Aesthet Surg J 2005;25(6):576

–81.
27. Sozer SO, Agullo FJ, Wolf C. Autoprosthesis buttock augmen- tation during lower body lift. Aes- thetic Plast Surg 2005;29:133.
28. Sozer SO, Agullo FJ, Palladino H. Bilateral lumbar hip dermal fat ro- tation flaps: a novel technique for autologous augmentation glu- teoplasty. Plast Reconstr Surg 2007;119(3):1126–7.
29. Sozer SO, Agullo FJ, Palladino H. Autologous augmentation gluteo- plasty with a dermal fat flap. Aes- thet Surg J 2008;28(1):70–6.
30. Sozer SO, Agullo FJ, Palladi- no H. Split gluteal muscle flap for autoprosthesis buttock aug- mentation.Plast Reconstr Surg 2012;129(3):766–76.
31. Centeno RF. Gluteal aesthetic unit classification: a tool to improve outcomes in body contouring. Aes- thet Surg J 2006;26(2):200–8.
32. Mendieta CG. The art of gluteal sculpting. St Louis (MO): Quality Medical Publishing; 2011.
33. Lee EI, Roberts TL III, Bruner TW. Ethnic considerations in but- tock aesthetics. Semin Plast Surg 2009;23(3):232–43.
34. Centeno RF, Young VL. Clinical anatomy in aesthetic gluteal con- touring surgery. Clin Plast Surg 2006;33:347–58.
35. Gonzalez-Ulloa M. Belt lipecto- my. Br J Plast Surg 1960;13:179– 86.
36. Lockwood TE. Lower-body lift. Aesthet Surg J 2001; 21:355–70.
37. Lockwood TE. Maximizing aesthetics in lateraltension abdomi- noplasty and body lifts. Clin Plast Surg 2004;31:523–37.
38. Aly AS, Cram AE, Chao M, et al. Belt lipectomy for circumferential truncal excess: the University of Iowa experience.Plast Reconstr- Surg2003;111(1):398–413.
39. Nemerofsky RB, Oliak DA, Ca- pella JF. Body lift: an account of 200 consecutive cases in the massive weight loss patient. Plast Reconstr Surg 2006;117(2):414–30.
40. Srivastava U, Rubin J, Gusenoff JA. Lower body lift after massive weight loss: auto-augmentation versus no augmentation. Plast Re- constr Surg 2015;135(3): 762–72.
41. Carlone R, Naudet F, Chaput B, et al. Are there factors predictive of postoperative complications in circumferential contouring of the lower trunk? A meta-analysis. Aes- thet Surg J 2016;36(10): 1143–54.
42. Cheney FW, Domino KB, Ca- plan RA, et al. Nerve injury asso- ciated with anesthesia: a closed claims analysis. Anesthesiology 1999;90:1062–9.
43. Kroll DA, Caplan RA, Posner K, et al. Nerve injury associated with anesthesia. Anesthesiology 1990; 73:202–7.
44. Brodsky J. Positioning the mor- bidly obese patient for anesthesia. Obes Surg 2002;12:751–8.
45. Lincoln JR, Sawyer HP. Compli- cations related to body positions during surgical procedures. Anes- thesiology 1961;22:800–9.46. Greif R, Laciny S, Rapf B, et al. Supplemental oxygen reduces the incidence of postoperative nausea and vomiting. Anesthesiology 1999;91(5):1246–52.
47. Mangram AJ, Horan TC, Pear- son ML, et al. Guideline for preven- tion of surgical site infection. Infect Control Hosp Epidemiol 1999;20:247–8.
48. Rubin JP, Nguyen V, Schwent- ker A. Perioperative management of the post-gastric-bypass patient presenting for body contour sur- gery. Clin Plast Surg 2004;31:601– 10.
49. Agha-Mohammadi S, Hur- witz DJ. Nutritional deficiency of post-bariatric surgery body con- touring patients: what every plas- tic surgeon should know. Plast Re- constr Surg 2008;122(2):604–13.
50. Austin RE, Lista F, Khan A, et al. The Impact of protein nutrition- al supplementation for massive weight loss patients undergoing abdominoplasty. Aesthet Surg J 2016;36(2):204–10.
51. Young VL, Watson ME. The need for venous thromboem- bolism (VTE) prophylaxis in plastic surgery. Aesthet Surg J 2006;26(2):157–75.
52. Venturi ML, Davison SP, Capri- ni JA. Prevention of Venous throm- boembolism in the plastic surgery patient: current guidelines and recommendations. Aesthet Surg J 2009;29(5):421–8.
53. Jeong HS, Miller TJ, Davis K, et al. Application of the Caprini risk assessment model in evaluation of non– venous thromboembolism complications in plastic and recon- structive surgery patients. Aesthet Surg J 2014;34(1):87–95.
54. Shermak MA, Rotellini-Coltvet LA, Chang D. Seroma development following body contouring surgery for massive weight loss: patient risk factors and treatment strategies. Plast Reconstr Surg 2008;122(1): 280–8.

Tham khảo thêm một số bài viết cùng chủ đề

 

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây